Tài liệu của Bác Sầm Văn Bình - Người Bảo tồn Văn hóa Thái
Read more »
Monday, May 4, 2015
Cây “cột thiêng” trong nhà sàn của người Thái đen
rong kiến trúc nhà sàn của người Thái đen, “cột thiêng” có vai trò vô cùng quan trọng, được coi như trụ cột, chứa đựng linh hồn của ngôi nhà, là biểu tượng cho sự bền vững của một gia đình.
Bản mường Thái thường định cư gần nguồn nước, mỗi bản có từ vài chục đến hơn trăm nóc nhà kề bên nhau, người Thái ở nhà sàn, kết cấu bằng gỗ, với những hàng cột gỗ vuông hoặc tròn được kê đá, sàn cao, lợp lá cọ hoặc ngói. Mỗi nhà tùy theo gia cảnh mà dựng 3 gian hoặc 5 gian. Người Thái Đen làm nhà thường tạo mái hình mai rùa, trang trí trên hai đầu nóc nhà bằng khau cút theo phong tục xưa truyền lại.
Người Thái quan niệm, Mường (đơn vị hành chính có khái niệm tương đối gồm nhiều bản hợp thành như Mường Lò, Mường Thanh…hoặc lớn như một nước như: Mường Việt, Mường Trung Quốc…) là một cái nhà lớn. Trong ngôi nhà rộng lớn ấy, có cột mường (Lắc mường), tức là cột hồn mường, là trụ cột của đất nước.
Cột thiêng ở bên phía quản, nơi dành riêng cho đàn ông và thờ cúng. Khi dựng nhà, bao giờ cây cột này cũng được dựng trước, rồi mới dựng đến cột ở gian thờ. Người Thái có câu: Púc sau hẹ khửn cón/ Púc sau hóng nắm lăng (Cột thiêng dựng trước/ Cột gian thờ dựng sau).
Cột hồn mường được cụ thể hóa bằng gỗ lõi không mối mọt, đặt trang trọng trong mâm lễ cúng bản, cúng mường - “xên bản, xên mường”. Sau khi cúng xong, ông mo và người đứng đầu mường bí mật đem chôn ở bốn góc của đất “chiềng”.
Trong quan niệm xưa, nếu kẻ thù phát hiện ra nơi chôn cột mường và đào phá, tức là đã xâm phạm đến chủ quyền, có thể gây rối loạn cho bản mường, tiến tới lật đổ hệ thống cai trị hoặc xâm chiếm bản mường đó. Người Thái cho rằng, Then luông từ trên trời giữ dây mường nối với cột mường, khi nào dây mường còn chắc thì vận mệnh của mường còn hưng thịnh và ngược lại, nếu Then luông buông dây mường thì cột mường lung lay, thiên tai địch họa sẽ đổ xuống bản mường.
Ngôi nhà trong quan niệm của người Thái đen không chỉ là nơi ở của những người còn sống, mà còn là nơi trú ngụ của những linh hồn người qua đời. Khi dựng cột thiêng là một sự nhắc nhở mỗi thành viên trong gia đình phải có bổn phận nhớ ơn và thờ cúng ông bà, tổ tiên, sống sao cho có ích, phát huy được truyền thống tốt đẹp của gia đình.
Trong ngôi nhà sàn, trên cột thiêng bao giờ cũng có một giỏ tre được gọi là: “chóp nguôm” đan từ trước, lồng vào cột thiêng từ trước khi dựng. Giỏ tre này tượng trưng cho bầu trời bao bọc lấy trái đất. Trên “chóp nguôm” treo hình rùa đẽo bằng gỗ, ba bông thì là – “sam hom chík”, ba bông lúa “sam huống khẩu”, gói hạt rau cải – “tén phắc cát”, một số nơi còn có hình con cò bằng gỗ và linh vật của nam và nữ...
Mỗi biểu tượng treo trên “chóp nguôm” đều có những ý nghĩa sâu sắc, chuyên chở những ý nghĩa nhân sinh cao đẹp. Hình rùa tượng trưng cho thần rùa, vị thần được trời cử xuống dậy cho người Thái biết cách làm nhà để tránh mưa giông giá rét theo hình rùa đứng, đồng thời còn chuyên chở ước mong cuộc sống gia đình hòa thuận, mạnh khỏe, con cháu đông vui, làm được nhiều của cải. Hạt mùi và thì là tượng trưng cho âm dương…
Cột thiêng trong ngôi nhà sàn của người Thái không chỉ ẩn chứa quan niệm tôn giáo của thời kỳ phụ hệ, mà còn thể hiện những ước mơ thánh thiện, quan niệm sống, là điểm tựa tinh thần cho mỗi người. Mỗi con người đều phải có trách nhiệm với truyền thống tốt đẹp của tổ tiên, có trách nhiệm với cộng đồng, phấn đấu vì một ngày mai tươi sáng hơn.
Nhà sàn - công trình đoàn kết của cộng đồng dân tộc Thái
Nhà sàn không chỉ là không gian sinh hoạt, còn là công trình kỳ công của cả cộng đồng người Thái (Nghệ An), ở đó tình đoàn kết của cộng đồng làng bản được thể hiện rõ nét nhất.
Nhà sàn nguyên bản của người Thái ở Nghệ An ngày xưa chỉ có 2 - 3 gian, cột chôn. Gian để bàn thờ phía ngoài là nơi cấm kị đàn bà con gái ngủ nghỉ hay ngồi ăn cơm. Gian trong vừa để sinh hoạt cũng là gian bếp, về sau nhà có điều kiện thường dựng nhà kê táng (cột nhà được dựng trên các trụ đá). Dưới gần sàn người ta nuôi gà vịt, gia súc, đặt cối giã gạo... Tùy điều kiện của từng gia đình, ngôi nhà sàn cũng dài, ngắn khác nhau, nhưng gian ngoài cùng phía cầu thang vẫn để bàn thờ và gian trong cùng thường đặt chiếc bếp hình vuông làm nơi nấu nướng.
Ngày nay, cấu trúc nhà sàn của người Thái thường làm 3 hoặc 5 gian. Gian ngoài để tiếp khách, ăn cơm, uống rượu cần. Nếu khách ở xa nghỉ lại, thì chủ nhà sắp xếp gối, chăn, nệm, màn ở gian ngoài. Nệm và gối được làm bằng bông lau và chất vải thổ cẩm do bàn tay khéo léo của người phụ nữ Thái dệt nên.
Nhà sàn được làm bằng gỗ các loại như: săng lẻ, lim, chò chỉ… mái lợp có thể bằng gỗ, lá cọ, ngói hoặc tôn…. tùy vào hoàn cảnh kinh tế của từng gia đình mà định liệu cách làm nhà 3 hay 5 gian, lợp tranh hay ngói, gỗ xẻ hay gỗ tròn.
Để có được ngôi nhà sàn đòi hỏi sự góp công sức của cả cộng đồng. Những ngôi nhà bề thế càng cần sự giúp sức của nhiều người. Trong kế hoạch dựng nhà sàn, trước hết phải họp bàn với anh em họ tộc, sau đó người đàn ông trụ cột trong gia đình lên rừng chọn gỗ dựng nhà. Việc khó khăn đầu tiên là lựa gỗ làm cột, rồi đến các bộ phận khác của ngôi nhà.
Trong công đoạn dựng nhà, người ta phải dùng đến 2 chiếc tời và hàng chục, thậm chí hàng trăm người kéo mới có thể dựng xong một vì nhà. Sau đó là việc lắp những bộ phận khác như kèo, xà thượng ốc đều là những thanh gỗ rất nặng nề, lại lắp đặt trên cao đòi hỏi sự khéo léo cũng như kinh nghiệm của người thợ làm nhà. Đến khi lợp nhà lại cần một lượng nhân lực rất lớn để vận chuyển vật liệu.
Sau khi hoàn thành việc dựng nhà, người Thái thường tổ chức lễ mừng nhà mới. Ngoài gia chủ còn có những người đã góp phần làm nên căn nhà, vì thế, những cuộc mừng nhà mới thường kéo dài thâu đêm suốt sáng.
Nhà sàn của người Thái không chỉ là một không gian sinh hoạt, nó là kỳ công của cả cộng đồng, ở đó tình đoàn kết của cộng đồng làng bản được thể hiện rõ nét nhất. Có thể nói, ngôi nhà sàn là mối dây làm nên những buôn, những bản mường, còn là nét văn hóa đặc sắc của dân tộcThái.
TH
Bánh chưng đen của người Thái, Yên Bái
Ai đã từng đến và được thưởng thức món bánh chưng đen người Thái vùng đất Mường Lò (Yên Bái) hẳn sẽ không quên được vị thơm của nếp, vị ngọt, béo của thịt lợn vùng cao, vị ngậy bùi của nhân đỗ xanh, vị là lạ của cây rừng.
Mường Lò - mảnh đất của “gạo trắng, nước trong”, nơi có những cô gái Thái duyên dáng trong chiếc áo cỏm, khăn piêu không chỉ mang trong mình những nét văn hóa truyền thống độc đáo riêng có mà nét sinh hoạt ẩm thực của đồng bào cũng vô cùng tinh tế, đậm đà hương sắc núi rừng. Một trong những món ăn ngon ngày tết mang đặc trưng riêng của người Thái Mường Lò là “bánh chưng đen”.
Món Bánh Chưng đen Mường Lò cũng khiến cho ai đã nếm đều muốn ăn thêm. Bánh được đồng bào dân tộc Thái nơi đây làm ra với ý nghĩa thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời. Món bánh đặc sản này không thể thiếu trên mâm cỗ cúng tổ tiên, trời đất mỗi khi xuân về.
Nguyên liệu làm bánh của đồng bào được chọn lựa kỹ càng: lá dong bánh tẻ, khổ vừa phải, rửa sạch, lau khô. Gạo nếp được chọn phải là nếp Tú Lệ thơm ngon, nhân đỗ xanh hoặc đỗ nho nhe đãi sạch vỏ, không lẫn sạn. Thịt lợn ngon nhất là thịt ba chỉ, nhiều mỡ một chút, thái mỏng, ướp với gia vị, hạt tiêu, hành củ. Để tạo màu đen cho chiếc bánh, đồng bào lấy thân cây núc nác tước vỏ, hoặc hoa cây vừng đen đốt thành than, giã mịn như bột, trộn lẫn với gạo nếp, đảo đều cho đến khi gạo quyện với bột than thành màu đen.
Bánh chưng đen phải được gói thủ công. Củi để luộc bánh phải là củi gỗ to, giữ than tốt, khi luộc xếp bánh vào nồi, đậy kín vung. Lúc nồi bánh chưa sôi thì đun to lửa, khi nồi bánh đã sôi giữ lửa đều, đủ nhiệt để bánh chín nhuyễn, chín đều, đun từ 6-7 tiếng. Khi chín vớt ra cho vào chậu nước rửa qua và treo bánh thành từng cặp để cho bánh không bị mốc.
Bà con gói bánh chưng đen để cúng tổ tiên ngày tết
|
Thưởng thức một miếng bánh, cảm nhận được hương vị thật đặc biệt, vị thơm của nếp, vị ngọt, béo của thịt lợn vùng cao, vị ngậy bùi của nhân đỗ xanh, vị là lạ của cây rừng.
Bánh chưng đã được nấu chín thơm lừng
|
Với người Thái Mường Lò, làm bánh chưng đen được gìn giữ như một nét văn hóa ẩm thực, mang đặc trưng riêng của người Thái. Đây là nét văn hóa mà nhiều du khách khi đến Mường Lò lưu luyến khó quên.
Nậm pịa – món ăn độc đáo dân tộc Thái, Sơn La
Nậm pịa là món ăn truyền thống có từ lâu đời và được đồng bào dân tộc Thái rất yêu thích.
Trong tiếng Thái, “nậm” có nghĩa là canh, “pịa” là chất sền sệt ở trong ruột non của bò. Món có tên đơn giản là nậm pịa, tùy theo cách hiểu của mỗi người. nậm pịa chỉ có ở vùng núi Tây Bắc từ Mộc Châu đến Sơn La, đây là món ăn truyền thống có từ rất lâu đời và được đồng bào dân tộc Thái rất yêu thích.
Nguyên liệu làm món ăn này là tiết bò hoặc tiết dê để đông, đuôi, dạ dày, cuống tim và không thể thiếu một thứ nước sền sệt từ bên trong ruột non của con bò, gọi nó là “pịa”.
Cách chế biến món nậm pịa như sau: Đầu tiên người ta chọn một đoạn ruột non ngon để lấy pịa, ninh xương và lục phủ ngũ tạng lên để lấy nước, sau đó họ đổ pịa vào, có nơi còn cho thêm chút mật bò vào pịa. Phần ruột non sau khi lấy phải buộc chặt hai đầu, sau đó cắt thành khúc, trộn kèm rau thơm, bột mắc khén (hạt tiêu rừng), tỏi, ớt, mùi tàu…tất cả các gia vị được băm nhỏ.
Sau khi chuẩn bị xong, đặt nồi pịa trên bếp lửa đun đến khi nồi pịa sánh, sền sệt lại là được. Món nậm pịa được múc ra bát có màu nâu, nước sền sệt, ban đầu khi nếm thử ta sẽ thấy vị đắng và mùi hơi khó ngửi. Có nhiều người mới đầu khi trông thấy bát nậm pịa, ngửi thấy mùi đã không ăn được. Nhưng khi đã nếm đôi ba miếng, bỏ qua những cảm nhận ban đầu về mùi và vị, thì những miếng tiếp theo, ta sẽ cảm nhận được mùi thơm của mắc khén, một loại gia vị của núi rừng.
Nồi nậm pịa được đun trên bếp. Ảnh: Internet
Nấu món pịa, người ta không thể quên gia vị đặc trưng “mắc khén” (mắc khén là gia vị từ cây rừng phổ biến như hạt tiêu dưới miền xuôi) cùng nhiều gia vị khác như sả, ớt… Đặc biệt, để tạo vị cho pịa, người ta cho thêm mật bò và lá đắng trong rừng. Vì thế, vị chủ đạo của pịa là vị đắng nhưng ăn xong lại có vị ngọt của xương, thịt và của pịa. Vừa ăn nậm pịa, vừa nhấm nháp chén rượu thơm, ta lại thấy miếng nậm pịa đắng nơi đầu lưỡi và ngọt nơi cuống lưỡi. Món nậm pịa tuy vậy nhưng lại rất an toàn cho những ai yếu bụng.
Nậm pịa là món ăn truyền thống có từ rất lâu đời của đồng bào dân tộc Thái. Ảnh: Internet
Thông thường, những người dân nơi đây ăn nậm pịa cùng với thịt bò hoặc dê luộc, ăn kèm với rau chuối và bạc hà. Khi bạn chấm những miếng thịt luộc vào bát nậm pịa thì bạn mới cảm nhận được hương vị của các loại gia vị lan tỏa ngào ngạt, chỉ một lần thưởng thức thôi cũng đủ cho bạn có cảm giác là lạ bởi vị giác chuyển từ đắng sang ngọt khiến khó ai đã nếm có thể quên được món nậm pịa, đó cũng là một phần làm nên nét văn hóa ẩm thực độc đáo của người Thái ở Sơn La. Nếu có khi nào được thưởng thức nậm pịa đặc chính tông kiểu dân tộc Thái, chắc hẳn sức quyến rũ miền núi rừng sẽ khiến nhiều bước chân trở nên quyến luyến hơn.
TH
Đặc sản chịn xồm của người Thái, Nghệ An
Chịn xồm là món thịt chua của người Thái (Nghệ An). Thịt được ăn kèm với các loại rau thơm, chấm nước mắm, tạo cảm giác rất ngon miệng cho người thưởng thức.
Nếu có dịp lên miền tây Nghệ An, đến với đồng bào Thái, bạn sẽ được thưởng thức những món ăn mang đậm màu sắc núi rừng. Các món ăn của người Thái là sự hoà hợp giữa hương rừng, gió núi. Phản ánh tâm hồn của dân tộc. Là sự khéo tay hay làm, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Thái.
Các món ăn đặc trưng của người Thái ở miền Tây Nghệ An trong lễ Tết, hội hè thường có các loại Pà Pinh, bánh sừng trâu, bánh họ cà tôm, cơm lam, canh nhọoc, canh ột, Pắc chụp, chẻo măng đắng, pá nạp… và không thể thiếu món chịn xồm.
Để làm món chịn xồm, có thể lấy thịt bò, thịt trâu, thịt lợn. Người làm phải chọn miếng thịt đặc, không có mỡ, bạc nhạc, rửa sạch, cắt thành từng miếng bằng bàn tay. Sau đó đem nhúng qua nước sôi chừng nửa phút cho săn tái mặt ngoài, rồi vớt ra, để ráo nước, mới thái mỏng; phải thái ngang thớ thịt, thái miếng to. Cho muối vào đảo đều để ướp; lượng muối vừa ăn và phải làm muối trắng, mặn quá nhạt quá hoặc muối không thuần khiết sẽ làm hỏng thịt.
Sau đó, ướp được chừng một tiếng thì lấy một ít cơm nguội trộn với thịt, liều lượng cơm so với thịt khoảng một phần ba. Cơm phải là cơm tẻ và phải để thật nguội. Sau đó cho thịt vào ống nứa tươi mới tốt, nén thịt xuống vừa phải, không chặt quá, cũng không để thịt rời rạc quá, thịt sẽ không chua đều; rồi nút ống lại bằng lá chuối, lá dong, nút làm hai lớp, lớp thứ nhất vo tròn lá, đút sâu vào trong ống, lớp thứ hai dùng lá trùm miệng ống bên ngoài, lấy lạt buộc chặt.
Xong, đem ống thịt bỏ lên gác bếp để lấy hơi lửa, dựng nghiêng kẻo chảy nước xuống. Trong môi trường nhiệt độ cao vừa phải, yếm khí, thịt lên men sẽ "chín" và có vị chua. Ống thịt để trên gác bếp được khoảng ba ngày thì đem xuống, mở nút đổ thịt ra, đổ thính gạo vào trộn cho thơm, rồi lại cho thịt vào ống nứa, buộc lại, để lên gác bếp như cũ. Những thao tác này phải làm nhanh kẻo thịt bị hấp hơi, bị tanh; muốn thế thì phải chuẩn bị thính từ trước. Ống thịt chua để trên gác bếp khoảng ba ngày nữa thì dùng được.
Khi ăn, chỉ cần mở nút, lấy thịt ra đĩa, gắp miếng thịt bỏ vào trong các loại lá lộc thơm (lá chanh, sung, húng quế...) cuộn lại, đem chấm nước chấm đã được pha chế cho hợp khẩu vị (nước mắm ngon, tiêu, ớt... nhưng chớ cho tỏi vào vì thịt chua này kỵ nó). Nhìn miếng thịt vẫn đỏ hồng nhưng đã chín bởi quá trình lên men, ăn thấy chua, bùi, cay, béo, không ngậy, tóm lại là ngon rất đặc trưng.
Người Thái ở miền Tây Nghệ An có hàng chục món ăn dân dã khó có thể kể hết. Tuy nhiên điểm xuyên suốt của văn hóa ẩm thực của người Thái là sự hài hòa và gắn chặt với tự nhiên, phản ánh điều kiện sống gắn bó với thiên nhiên và bản chất tộc người một cách rõ nét. Những món ăn mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Thái ngày càng được tiếp thu, lưu truyền và phát triển theo hướng sáng tạo, trở thành một bộ phận không thể thiếu trong nền văn hóa ẩm thực của dân tộc Việt Nam.
Những món ăn độc đáo người Thái, Nghệ An
Nếu có dịp lên miền tây Nghệ An, đến với đồng bào Thái, bạn sẽ được thưởng thức những món ăn mang đậm màu sắc núi rừng.
Hạnh Dịch - một xã Biên giới huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An với 100% dân tộc Thái sinh sống. Nơi đây không chỉ lưu giữ nhiều loại hình văn hóa dân gian đặc sắc mà còn lưu giữ nhiều nét văn hóa ẩm thực độc đáo của người Thái miền tây Xứ Nghệ.
Cánh ột
Nguyên liệu và cách chế biến: gạo ngâm nước giã thành bột; hết Bi ( Nấm hương); bí non; cá nướng giã nhỏ, hoặc gà băm nhỏ; ớt cay hoặc mạc khén loại gia vị của thiên nhiên, có vị cay và đắng; muối, mì chính... Đun nước sôi, khuấy bột đều, lần lượt bỏ các thứ đã sơ chế, đậy nắp xoong, nấu chín. Tất cả các nguyên liệu đều do hái lượm trên rừng. Đảm bảo rau sạch, ăn có vị cay cay, đắng ngọt thơm ngon bổ dưỡng, chống béo phì.
Chúp (Nộm)
Măng, đậu, ngọn bầu, hoa và quả quao - loại quả này lấy cả cây và rễ , sắc lấy nước uống ,dùng chữa bệnh gan rất tốt. Quả Quao nướng đến độ phồng, cạo vỏ, thái mỏng. Quả dầu nướng giã nhỏ, các gia vị: muối , bột canh, ớt cay, mạc khén... trộn đều. Món chúp ăn ngon thơm, có vị đắng của hoa và quả quao, vị bùi và béo của quả dầu, ngọt của đậu, măng, ngọn bầu... Chúp có giá trị chữa bệnh gan rất tốt. Ăn không chán, không béo phì ...
Khầu Lám (Cơm Lam)
Cơm lam trên mâm cơm của người Thái
|
Pá Pình: (Cá nướng)
Món cá suối nướng trên mâm cơm của người Thái
|
Ngày nay Cơm Lam, cá nướng là đặc sản. Nếu có dịp đi hội Hang Bua ở Quỳ Châu hoặc hội Đền chín gian, tắm thác Xao Va ở Quế Phong, các bạn sẽ được thưởng thức thứ đặc sản này.
Khầu Cẩm Côống
Lá Cẩm Côống hái trong rừng. Bỏ lá vào nước đun sôi. Lấy nước ngâm nếp trắng sẽ có màu đỏ tươi. Bỏ nếp vào hông- thứ hông gỗ xôi sẽ khô ráo, nắm cơm không dính tay mà rất dẻo. Bắc hông lên bếp lửa hồng đượm than củi, khoảng 30 phút, xôi chín có màu đỏ. Xôi bỏ vào ép, để hai 3 ngày vẫn dẻo thơm mà không bị cứng không bị khô.
Khầu cẩm coống trên mâm cơm của người Thái (màu đỏ của lá cẩm côống)
|
CTV/HoàngCẩmThạch